Việc huấn luyện giáo lý viên nhằm mục đích giúp giáo lý viên trở thành một Kitô hữu vừa hồng (có phẩm chất đạo đức) lại vừa chuyên (có chuyên môn).
Tài liệu Hướng Dẫn dành cho Giáo lý viên năm 1992 của Thánh Bộ Phúc Am hoá các dân tộc có những chỉ dẫn khá chi tiết về việc huấn luyện giáo lý viên, theo những tiêu chuẩn sau đây:

1. Cần có sự huấn luyện thích đáng.
"Để các giáo đoàn có đủ giáo lý viên xứng hợp, ngoài việc tuyển chọn cách cẩn trọng, cần nhắm tới việc chuẩn bị, vì chất lượng giáo lý viên tùy thuộc vào sự chuẩn bị này.

Huấn quyền của Hội Thánh luôn đòi hỏi và nhất quyết đòi hỏi sự chuẩn bị cho giáo lý viên, vì mọi hoạt động tông đồ "nếu không được đảm nhận bởi những người có đào tạo, thì chắc chắn sẽ thất bại"

Cũng nên biết rằng các tài liệu của Huấn quyền đều nhấn mạnh đến việc đào tạo "toàn diện" và "chuyên biệt" cho giáo lý viên. Toàn diện nghĩa là bao gồm mọi chiều kích của nhân cách giáo lý viên. Chuyên biệt nghĩa là phù hợp với các đặc tính của công việc mà giáo lý viên được mời gọi thực hiện giúp các mục tử, như loan báo Lời Chúa cho mọi người xa gần, hướng dẫn cộng đoàn, linh hoạt và nếu cần, chủ tọa cộng đoàn cầu nguyện, phục vụ anh chị em theo nhu cầu khác nhau về tinh thần và vật chất. Điều này đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II minh định: "Ưu tiên cho chất lượng, nghĩa là ưu tiên cho việc huấn luyện căn bản thích hợp và việc cập nhật hóa luôn. Để bảo đảm cho sứ vụ của Hội Thánh có nhân sự xứng hợp, cốt thiết phải có chương trình đầy đủ và cơ chế thích hợp để đảm nhận việc huấn luyện giáo lý viên về các mặt, từ huấn luyện nhân bản đến huấn luyện thiêng liêng, tín lý, tông đồ và chuyên môn" (Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế, 73; Tông huấn Kitô hữu giáo dân, 60; xem Sắc lệnh Truyền Giáo của Công đồng Vatican II, 17)

Như thế, đây là một sự huấn luyện bắt buộc đối với các đương sự và vất vả cho những ai phải góp phần vào việc huấn luyện ấy. Thánh bộ Phúc hóa các dân tộc ghi nhận đây là "công việc của các đấng bản quyền." (tlđd, số 19).

2. Đời sống thống nhất và hài hòa nơi giáo lý viên.
"Để thực hiện ơn gọi của mình, giáo lý viên, cũng như mỗi Kitô hữu giáo dân, "phải được huấn luyện để thống nhất đời sống của mình, đời sống của một người vừa là phần tử của Giáo hội, vừa là công dân của xã hội loài người". Trong cuộc sống của giáo lý viên, không thể có nhiều cuộc sống song hành: một đàng là đời sống "thiêng liêng" với những gía trị và đòi hỏi riêng; đàng khác là đời sống "trần thế" với những tương quan của nó; rồi đến đời sống "tông đồ" với những dấn thân của nó...(Tông huấn Kitô hữu giáo dân của Đức Gioan Phaolô II, số 59).
Để có được sự thống nhất và hài hòa nơi con người của mình, điều quan trọng là giáo lý viên phải cất đi những rào cản về mặt tính khí, tri thức, tình cảm v.v...gây trở ngại cho sự tăng trưởng và tuân theo một chương trình sống có trật tự; nhưng dứt khoát phải đi vào chiều sâu và chạm đến nguyên lý hay nguồn mạch căn tính của chính tác vụ giáo lý viên, đó là "con người"Đức Giêsu Kitô.
Đối tượng chính yếu và đầu tiên của Huấn giáo, như chúng ta đã biết, chính là Đức Giêsu Nadarét, "Con Một của Chúa Cha đầy ân sủng và chân lý" (Ga 1,14), "Người là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống" (Ga 14,6). Trọn "mầu nhiệm Đức Kitô"(Ep 3,4) "ẩn giấu từ bao thế kỷ và bao thế hệ”"(Cl 1,26), cần phải được mạc khải. Do đó, giáo lý viên phải quan tâm thông truyền, qua lời dạy và cách sống của mình, đạo lý và cuộc đời Đức Giêsu. Con người và hành động của giáo lý viên tùy thuộc vào con người và hành động của Đức Kitô. Sự thống nhất và hài hòa trong cuộc sống của giáo lý viên được nhìn theo hướng qui Kitô và xoay quanh "sự gắn bó mật thiết với Chúa Kitô và Chúa Cha" trong Chúa Thánh Thần (Tông huấn Giảng dạy Giáo lý của Đức Gioan Phaolô II, số 5-6, 9). Chúng ta chưa bao giờ nhấn mạnh đủ về điểm này, để canh tân bộ mặt của giáo lý viên vào thời điểm quyết định cho sứ vụ của Hội Thánh (tlđd, số 20).
3. Trưởng thành về mặt nhân bản.
"Trong việc tuyển chọn, chúng ta đã lưu ý rằng giáo lý viên phải có tối thiểu các đức tính nhân bản, hoặc ít là những tiềm năng có thể được đào tạo và phát triển trong tiến trình huấn luyện. Trên bình diện này, mục tiêu phải đạt tới là giáo lý viên phải trưởng thành về mặt nhân bản và thích hợp cho một trách vụ cộng đoàn.

Do đó, có vài khía cạnh nhất định cần phải quan tâm: trước hết là lãnh vực nhân bản bao gồm: sự quân bình tâm sinh lý, sức khỏe tốt, có trách nhiệm, thật thà, năng động, đạo đức trong sinh hoạt nghề nghiệp và gia đình, tinh thần hy sinh, mạnh bạo, kiên trì v.v... Kế đến, giáo lý viên cần có khả năng thích hợp cho công tác như dễ dàng tiếp xúc gặp gỡ, đối thoại với các tôn giáo khác và với một nền văn hóa đặc thù, khả năng truyền đạt, sẵn sàng cộng tác, thận trọng khi hướng dẫn, phán đoán minh bạch, hiểu biết và thực tế, có khả năng an ủi và khơi dậy niềm hy vọng v.v...Sau cùng là một phẩm tính thích hợp cho các tình hình đặc biệt: là người xây dựng hòa bình; có khả năng thăng tiến, phát triển, linh hoạt văn hóa xã hội; nhạy bén trước những vấn đề công lý, y tế v.v...

Được phát triển nhờ khoa sư phạm lành mạnh, những phẩm tính trên đây tạo nên một nhân cách trưởng thành và trọn vẹn, lý tưởng cho một giáo lý viên" (tlđd, số 21).

4. Đời sống thiêng liêng sâu sắc:
"Sứ mạng của người giáo dục đức Tin đòi hỏi giáo lý viên phải có một đời sống thiêng liêng sâu sắc. Đây là khía cạnh cao nhất và quý gía nhất của nhân cách; do đó, cũng là chiều kích ưu tiên của việc huấn luyện. Giáo lý viên đích thực là một vị thánh" (xem Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế của Đức Gioan Phaolô II, 90).
Trọng tâm đời sống thiêng liêng của giáo lý viên là sự hiệp thông sâu xa trong niềm tin vào Đức Kitô và mến yêu Ngài, Đấng đã mời gọi và sai họ đi (xem Giáo Lý Hội Thánh Công giáo, 428). Như Đức Giêsu, vị Thày duy nhất (Mt 23,8) giáo lý vin phục vụ anh chị em qua lời giảng dạy v những việc lm vốn l những cử chỉ yu thương (Cv 1,1). Chu toàn ý Cha yu thương cứu độ loài người, là lương thực của giáo lý vin, như đ l lương thực của Đức Giêsu (Ga 4,34). Lý tưởng cần đạt tới trong khi thi hnh nhiệm vụ gio lý vin, l đời sống thánh thiện được thực hiện theo căn tính người giáo dân và tông đồ (xem Hiến chế Anh sáng muôn dân của Công đồng Vatican II, 41).

Việc huấn luyện thing ling diễn ra trong tiến trình trung thnh với "Đấng là nguyn lý khởi hứng cho cả Huấn gio v cho những ai lm Huấn gio, tức Cha Thnh Thần - Thnh Thần của Cha Cha v của Cha Con" (Tông huấn Giảng dạy Giáo lý của Đức Gioan Phaolô II, 72).

Cách thuận lợi nhất để đạt được sự trưởng thành nội tâm là đời sống bí tích v cầu nguyện sốt sng (Gio lý Hội Thnh Cơng Gio, 2742-2745).

Từ những kinh nghiệm cĩ ý nghĩa v thực tế nhất, pht sinh lý tưởng về đời sống cầu nguyện mà thánh bộ Phúc Am hóa các dân tộc đề nghị, ít nhất là cho giáo lý vin điều khiển cộng đoàn hoặc làm trọn thời gian hoặc cộng tác chặt chẽ với linh mục, nhất là những người được mệnh danh là cn bộ khung.

Tài liệu đề cập đến các thực hành của đời sống thiêng liêng mà giáo lý vin cần phải quan tm l sing năng tham dự thánh lễ, sống phụng vụ, đọc một phần Phụng vụ các giờ kinh, suy niệm Lời Chúa hàng ngày, kinh nguyện cá nhân, bí tích hịa giải, tĩnh tm (tlđd, số 22).
5. Chuẩn bị về Gio lý:
"Chuẩn bị về gio lý cho gio lý vin hẳn l điều cần thiết, nhằm giúp họ nắm vững nội dung cốt yếu của giáo lý công giáo, truyền đạt r rng v sống động, không sai sót hay lệch lạc.

Đối với tất cả ứng sinh, chúng ta địi hỏi họ phải cĩ trình độ văn hóa căn bản, tất nhiên là so với tình trạng chung của xứ sở.

Thiếu trình độ văn hóa sẽ nẩy sinh nhiều khó khăn. Do đó, phải liệu cách giải quyết những khó khăn này. Trước hết, để đưộc chấp nhận, tất cả các ứng sinh phải nâng trình độ học vấn căn bản lên bằng cách theo học khóa "văn hóa cao về tôn giáo", bằng không họ sẽ có mặc cảm tự ti đối với người đ học v thực sự cảm thấy km khả năng khi phải giáp mặt với một số lnh vực hay khi phải giải quyết cc vấn đề mới.

Nội dung huấn luyện hiện vẫn cĩ gi trị l việc "huấn luyện về thần học tín lý, nhn chủng học, phương pháp luận” như được trình by trong Bản Hướng Dẫn Huấn Giáo Tổng Quát, do Thánh Bộ Giáo sĩ xuất bản năm 1971. Nhưng tại các miền truyền giáo, cần phải có những minh định đặc biệt và bổ sung mà Thánh Bộ Phúc Am hóa các dân tộc đ trình by phần no trong hội nghị khống đại năm 1970 và giờ đây Thánh Bộ lập lại và triển khai dựa trên căn bản Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế." (tlđd, số 23).
6. Ý thức mục vụ:
"Chiều kích mục vụ của việc huấn luyện liên quan đến sự vận dụng ba chức năng: ngôn sứ, tư tế và mục tử của người giáo dân. Như thế, giáo lý vin phải được hng dẫn để loan báo Tin Mừng, dạy giáo lý, giúp đỡ anh chị em sống đức Tin và thờ phương Thiên Chúa cho phải đạo, chu toàn các công tác mục vụ được giao phó cho mình trong cộng đoàn.
Những thái độ chính yếu cần huấn luyện cho giáo lý vin l tinh thần trch nhiệm mục vụ v thuật lnh đạo, quảng đại phục vụ, năng động và sáng tạo; hiệp thông với Hội Thánh và vâng phục các vị mục tử.

Việc huấn luyện này địi hỏi cĩ sự hướng dẫn về lý thuyết, nhằm minh họa cc lnh vực tơng đồ chính yếu mà gio lý vin cĩ thể tham dự; nhờ đó,nắm bắt được các địi hỏi v những cch đáp ứng lại các địi hỏi ny. Cũng cần giải thích cho gio lý vin hiểu đặc điểm của từng hạng người thụ giáo là trẻ em, giới trẻ hoặc người lớn, sinh viên hoặc công nhân, đ lnh phép Thánh Tẩy hay chưa, thuộc cộng đoàn nhỏ hay thuộc các phong trào, v.v.. và những cách thức khác nhau để quan hệ với họ.

Việc huấn luyện mục vụ cịn địi hỏi phải thực tập, đặc biệt lúc đầu, dướisự hướng dẫn của các thày dạy hoặc một linh mục hoặc một gio lý vin khc cĩ nhiều kinh nghiệm.

Cch ring phải dạy cho gio lý vin biết chuẩn bị mục vụ cc bí tích, để họ có thể giúp các tín hữu hiểu r hơn ý nghĩa tơn gio của cc dấu chỉ v tin tưởng đến với các nguồn mạch sự sống siêu nhiên không hề vơi. Đừng quên một việc qua trọng là giúp các tín hữu đang đau khổ, sống hồng ân của bí tích Xức Dầu bệnh nhân.

Việc giảng dạy lý thuyết v thực hnh phải luơn hịa hợp với nhau, sao cho việc khai tm về sự dấn thn tơng đồ được tiệm tiến và đầy đủ.

Trong quá trình chuẩn bị cho gio lý vin lm cơng tc huấn gio nn nhắc lại cho gio lý vin "Chỉ thị tổng qut về Huấn gio", nhất là phần thứ tư "Những yếu tố của phương pháp luận" (Xem Hướng dẫn của Thánh Bộ Giáo sĩ năm 1971, 70) (tlđd, số 24).

7. Sự nhiệt thnh truyền gio:
"Chiều kích truyền giáo thuộc về căn tính giáo lý viên và định tính mỗi một hoạt động tông đồ. Do đó, phài ưu tiên huấn luyện cho giáo lý vin về truyền gio bằng cch quan tm đảm bảo cho mỗi giáo lý viên được khai tâm thích hợp, cả lý thuyết lẫn thực hành, về việc dấn thân với tư cách là giáo dân, thông qua các giai đoạn tiệm tiến vốn là các đặc điểm của hoạt động truyền giáo:

- Hiện diện một cch tích cực trong x hội bằng chứng t đời sống, đối thaọi thẳng thắn và cởi mở với mọi người, cộng tác trong đức ái để giải quyết các vấn đề chung (xem Sắc lệnh Truyền giáo của Công đồng Vatican II, 12; Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế của Đức Gioan Phaolô II, 42-43; Giáo Lý Hội Thánh Công giáo, 854).

- Loan bo cch thẳng thắn (Cv 4,13; 28,31) sự thật về Chúa và về Đấng được Chúa Cha sai đến để cứu độ mọi người, là Đức Giêsu Kitô (2 Tm 1,9-10), làm thế nào để những người ngoài Kitô giáo, được Chúa Thánh Thần mở trí mở lịng (Cv 16,14), cĩ thể tin v tự do trở lại với Cha (xem Sắc lệnh Truyền gio của Công đồng Vatican II, 13; Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế của Đức Gioan Phaolô II, 44-45; Giáo Lý Hội Thánh Công giáo, 854).

a) Gặp gỡ tín đồ của các tôn giáo khác, không thiên kiến mà đối thoại chân thành, cởi mở.

b) Chuẩn bị cho người dự tịng đến với mầu nhiệm Cứu độ, thực hành các giáo huấn Tin Mừng, sống đời Kitô hữu, phụng vụ và bác ái của dân Thiên Chúa (xem Sắc lệnh Truyền giáo của Công đồng Vatican II, 14; Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế của Đức Gioan Phaolô II, 46-47; Giáo Lý Hội Thnh Cơng gio, 854).

c) Xây dựng cộng đoàn bằng cch chuẩn bị cho cc ứng sinh lnh nhận php Thnh tẩy v cc bí tích khai tm khc, để gia nhập Hội Thánh Chúa Kitô, Đấng là ngôn sứ, tư tế và mục tử (xem Sắc lệnh Truyền giáo của Công đồng Vatican II, 15; Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế của Đức Gioan Phaolô II, 48; Giáo Lý Hội Thánh Công giáo, 854).

d) Dưới quyền các mục tử và cộng tác với các tín hữu khác, chu tồn cc trch vụ, xt trn bình diện mục vụ - hướng về sự trưởng thành của giáo hội địa phương. Các việc phục vụ này gắn liền với những nhu cầu riêng của mỗi giáo hội, và xác định tính cách của giáo lý vin trong cc miền truyền gio. Hệ quả l cc hoạt động huấn luyện phải giúp giáo lý vin nhạy bn về truyền gio, bằng cch gip gio lý vin khm ph mọi hồn cảnh thuận lợi để loan báo Tin Mừng và dấn thân vào đó (tlđd, số 25).

8. Ý thức về Gio hội:
"Giáo hội tự bản chất là truyền giáo và được sai đi để rao giảng Tin Mừng cho mọi người; điều này dẫn đến hai xác tín: xác tín thứ nhất: hoạt động tông đồ không phải là hành vi cá nhân và đơn độc; xác tín thứ hai: hoạt động tông đồ được hoàn tất trong sự hiệp thông Hội Thánh, khởi đầu từ giáo hội địa phương với Giám mục của mình.
Những gì Đức Phaolô VI nhận xét về những người rao giảng Tin Mừng (xem Tông huấn Loan báo Tin Mừng của Đức Phaolô VI, 60) đều có thể áp dụng thích đáng cho các giáo lý viên, những người mà vai trị của họ thực sự thuộc về Hội Thnh v do đó mang tính cộng đoàn (xem Tông huấn Việc giảng dạy Giáo lý củc Gioan Phaolơ II, 24). Quả thế, gio lý vin được các vị mục tử ủy nhiệm và chu toàn sứ mạng đ lnh nhận từ Hội Thnh v nhn danh Hội Thnh. Gio lý vin khơng phải l người thày mà là đầy tớ khiêm hạ, nên hành động của họ nối kết với hành động của toàn Hội Thánh, trên bình diện thể chế v n sủng
"

Sau đó Tài liệu Hướng Dẫn cịn đề cập đến các thái độ căn bản cần huấn luyện cho giáo lý viên theo chiều kích cộng đoạn là: sẵn sàng vâng phục các vị mục tử, khả năng cộng tác ở nhiều cấp độ khác nhau (tlđd, số 26).


Giêrônimô Nguyễn Văn Nội